Thứ Bảy, 25 tháng 6, 2011

TÁC HẠI của việc sử dụng DOPING

DOPING
  Huấn luyện viên cá nhân - Doping là việc sử dụng các chất hoặc các phương pháp bị cấm nhằm tăng cường thành tích thể thao một cách giả tạo và bất hợp pháp. Hiện nay, có khoảng 190 chất bị cấm nằm trong danh mục doping, nhưng danh sách này sẽ không dừng lại, vì việc sử dụng doping luôn đi trước việc phát hiện ra chúng.

 Các chất doping bao gồm chất kích thích, thuốc giảm đau gây nghiện, thuốc tăng đồng hóa, thuốc lợi tiểu, các hormone peptide và đồng đẳng. Ngoài ra, một số chất kích thích quen thuộc như rượu, bia, thuốc gây tê tại chỗ… cũng bị liệt vào danh sách các chất doping.

DOPING MÁU
 Một số chất doping:

    Chất kích thích: amineptin, amiphenazole, amphetamines, bromantan, caffeine... và các đồng đẳng.
    Chất giảm đau gây nghiện: morphin, buprenorphine, methadone, pethidine, diamorphine (heroin)... và các đồng đẳng
    Chất tăng đồng hoá: nandrolone, clostebol, metandienone, stanozolol... và các đồng đẳng.
    Chất lợi tiểu: bumetanide, acetazolamide, chlortalidone, etarynic acid... và các đồng đẳng.

Sử dụng doping có thể giúp một vận động viên tăng sức mạnh cơ bắp tạm thời, đưa đến thành tích cao trong thi đấu, nhưng đằng sau những vinh quang đó có thể là sự tổn hại to lớn về sức khỏe, thậm chí là tính mạng.

Các phương pháp doping bao gồm:
  (1) doping “máu” - truyền máu hoặc các chế phẩm tương tự chứa hồng cầu nhằm làm tăng lượng hồng cầu trong máu vận động viên, ngoài mục đích điều trị.
  (2) sử dụng ozon. 
  (3) các phương pháp lý hóa - sử dụng các biện pháp nhằm làm sai lệch kết quả xét nghiệm thực đối với mẫu nước tiểu, có thể bằng cách sử dụng các chất ức chế bài tiết thận.

Nghiên cứu về xã hội học các trường hợp sử dụng doping người ta thấy có bốn loại động cơ sau đây:

1. Vì danh hiệu của địa phương, của quốc gia.
2. Vì sự trông đợi của quần chúng hâm mộ thể thao.
3. Với triết lý giành thắng lợi bằng bất cứ giá nào.
4. Vì những món tiền thưởng lớn.

HẬU QUẢ CỦA VIỆC SỬ DỤNG STEROID
 Bên cạnh vấn đề đạo đức và danh dự quốc gia, doping còn đặc biệt ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, đã làm cho nhiều vận động viên bị mắc các chứng bệnh hiểm nghèo, sức khoẻ thể chất và tinh thần đều sa sút, đã có những vận động viên chết vì sử dụng doping. 

    Khi sử dụng các thuốc tăng đồng hóa mà đại diện là các loại thuốc bắt nguồn từ kích dục tố nam testosterone nhằm làm tăng thể tích và sức mạnh cơ:

- Các vận động viên nữ có xu thế nam hóa như giọng nói trầm lại, nổi mụn, mọc râu, mọc lông và rối loạn kinh nguyệt.

- Còn vận động viên nam có nguy cơ bị teo tinh hoàn, tinh dịch giảm và có thể dẫn đến liệt dương. 

Ngoài ra, loại doping này còn gây ra tình trạng giữ muối (Na+), có thể dẫn đến suy tim hoặc suy thận. Nếu dùng liệu cao, kích dục tố nam này có thể chuyển thành kích dục tố nữ aestadiol. Một số vận động viên nam dùng liều cao có dấu hiệu ngực to và tăng oestrogen trong máu. Loại dược phẩm này còn có thể gây bệnh gan ứ huyết và ung thư gan.

    Các nội tiết tố tăng trưởng thường được sử dụng với mục đích làm tăng sức bền cho vận động viên. Tuy nhiên, trên thực tế việc sử dụng nó sẽ làm yếu cơ, to các đầu chi hoặc gây bệnh tiểu đường.

    Các thuốc kích thích hệ thần kinh trung ương như amphetamin có vẻ giúp vận động viên tăng sức. Nhưng các nghiên cứu cho thấy, khi vận động viên dùng nhiều, không những chúng không làm tăng lực và sức bền cho cơ, mà còn gây ra hội chứng run rẩy, thiếu tự tin, mất ngủ, dẫn đến suy nhược thần kinh.

    Phương pháp doping "máu" làm tăng lượng hồng cầu, từ đó tăng khả năng cung cấp ôxi cho các tế bào, giúp cơ hoạt động mạnh mẽ và bền bỉ hơn. Tuy nhiên, những vận động viên áp dụng phương pháp này có thể bị tán huyết, sốt, nổi mẩn ngứa, suyễn nặng, nhiễm khuẩn gan, hoặc nhiễm HIV. Thêm vào đó, nếu truyền vào cơ thể một lượng hồng cầu quá lớn, có thể dẫn đến nghẽn mạch máu, gây ảnh hưởng cục bộ, hoặc thậm chí tử vong.

OLYMPIC CẤM SỬ DỤNG DOPING
Mặc dù sử dụng doping có nguy cơ gây hại cao cho sức khoẻ, song hiện tượng này vẫn rất phổ biến trên thế giới, do các vận động viên phải chịu sức ép thành tích quá lớn. Trong một cuộc điều tra ở Pháp, 80% số vận động viên được hỏi cho biết họ sẵn sàng sử dụng doping nếu việc này chắc chắn dẫn họ đến ngôi vị quán quân trong các giải đấu châu Âu.

Một thực tế đáng buồn là không phải thầy thuốc nào và huấn luyện viên nào cũng coi việc chăm sóc vận động viên mà họ phụ trách là công việc hàng đầu. Thậm chí họ còn thúc bách vận động viên phải thắng bằng mọi giá. 

Nếu các cuộc thi đấu thể thao để cho suy thoái thành những cuộc đua tranh giữa các nhà dược lý học, các thầy thuốc, các huấn luyện viên... với các đấu thủ (VĐV) được dùng như vật thí nghiệm thì những cuộc thi đấu đó chắc chắn là trái với đạo lý tốt đẹp của thể dục thể thao.

Cần nhớ rằng, luật chống doping không phải chỉ áp dụng cho các cuộc thi đấu, mà cả trong tập luyện. Gần đây ở hầu hết các bang của Mỹ đã cho thi hành Luật cấm sử dụng các loại thuốc steroid sinh dục nam tăng đồng hoá. Nếu thầy thuốc cho vận động viên dùng thuốc này không phải để điều trị bệnh mà với mục đích doping thì có thể bị tống giam từ 5 đến 15 năm và bị tước bằng.




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét